Trong nền kinh tế hiện nay, khi ký kết hợp đồng thương mại, các doanh nghiệp thường thỏa thuận lựa chọn trọng tài thương mại làm phương thức giải quyết tranh chấp khi có vấn đề phát sinh. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp đã có thỏa thuận lựa chọn trọng tài thương mại làm cơ quan giải quyết tranh chấp nhưng vì không hiểu rõ quy định pháp luật mà nhiều trường hợp thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc cơ quan trọng tài đó không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Bài viết sau đây sẽ giúp quý bạn đọc hiểu thêm về vấn đề thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng thương mại.
Thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng thương mại
Thỏa thuận trọng tài là gì ?
Theo Khoản 2 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định:
“Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”.
Theo đó khi có phát sinh tranh chấp hoặc trong quá trình giao kết hợp hợp đồng thương mại, phương thức giải quyết theo trọng tài thương mại được áp dụng khi có thỏa thuận trọng tài giữa các bên tranh chấp.
Lý do cho việc thỏa thuận này là vì phán quyết trọng tài là chung thẩm, có nghĩa phán quyết đó là quyết định cuối cùng không bị kháng cáo, kháng nghị cùng với đó là tính cưỡng chế thi hành bắt buộc đối với các bên có trách nhiệm thi hành bản án. Do đó các bên cần phải thỏa thuận, tự nguyện lựa chọn áp dụng theo phương thức này thì mới có cơ sở thực hiện theo phán quyết.
Căn cứ điều 5 luật trọng tài thương mại 2010 điều kiện để áp dụng trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp, như sau:
- Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
- Trường hợp một bên tham gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
- Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Do đó không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có thể lựa chọn trọng tài thương mại làm cơ quan giải quyết tranh chấp mà cần phải đáp ứng điều kiện cần thiết theo luật định nhằm tạo cơ sở, tiền đề cho quá trình giải quyết tranh chấp theo con đường này.
Ưu điểm của việc lựa chọn thỏa thuận trọng tài
Đơn giản, nhanh chóng, linh hoạt:
Phương thức giải quyết này cho phép các bên tự thỏa thuận về thời gian, địa điểm, thủ tục tố tụng trọng tài, không bị áp đặt về mặt thủ tục hình thức như giải quyết tại Tòa án. Do đó doanh nghiệp có thể rút ngắn được thời gian cũng như chi phí cần thiết để giải quyết tranh chấp.
Tính bảo mật cao:
Nguyên tắc giải quyết của trọng tài thương mại là xét xử không công khai. Do đó các thông tin liên quan đến vụ việc tranh chấp chỉ các bên tranh chấp và cơ quan trọng tài nắm giữ và sẽ được bảo mật tuyệt đối, không công khai ngoại trừ đôi bên có thỏa thuận khác. Điều này là cần thiết vì khi doanh nghiệp xảy ra tranh chấp thương mại thì thiệt hại xảy ra trên nhiều phương diện và nếu thông tin bị tiết lộ sẽ ảnh hưởng đến uy tín, ảnh hưởng đến thương hiệu, hình ảnh công ty doanh nghiệp.
Dựa trên sự thỏa thuận đôi bên
Từ việc lựa chọn cơ quan trọng tài thương mại giải quyết tranh chấp cũng như trong quá trình thực hiện thủ tục giải quyết tranh chấp đều được thực hiện dựa trên sự thỏa thuận tự nguyện giữa các bên tranh chấp. Theo đó các bên có quyền tự thỏa thuận về thời gian, địa điểm, thủ tục tố tụng trọng tài, lựa chọn trọng tài viên, luật, ngôn ngữ giải quyết tranh chấp. Điều này tạo sự thuận lợi dễ dàng để các bên thực hiện theo ý chí của mình mà không bị ràng buộc tuân thủ như theo cơ chế tố tụng của Tòa án.
Nhược điểm của việc lựa chọn thỏa thuận trọng tài
Tuy có nhiều ưu điểm nêu trên, nhưng trọng tài thương mại cũng có những nhược điểm nhất định so với con đường Tòa án, cụ thể:
Có thể xảy ra sai sót trong vấn đề giải quyết
Do trọng tài tuyên án chỉ sau một cấp xét xử duy nhất nên đôi khi các quyết định của trọng tài là không chính xác, gây thiệt hại đối với quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp mà không thể nào giải quyết theo phương thức kháng cáo như thủ tục tố tụng tại Tòa án.
Không thể thực hiện biện pháp bảo đảm
Trọng tài không phải là cơ quan quyền lực nhà nước nên khi xét xử, trong trường hợp cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo chứng cứ, trọng tài không thể ra quyết định mang tính chất bắt buộc về điều đó mà phải yêu cầu Tòa án thi hành các phán quyết của mình.
Chỉ được áp dụng trọng tài thương mại khi có thỏa thuận
Khi không được thỏa thuận sử dụng trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp kinh doanh thì khi xảy ra tranh chấp, trọng tài không có thẩm quyền giải quyết ngay cả khi một bên doanh nghiệp có ý định đó.
Các hình thức thỏa thuận trọng tài
Căn cứ Điều 16 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định về hình thức thỏa thuận trọng tài như sau:
- Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.
- Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
- Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
- Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
- Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
- Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
- Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
Theo quy định trên, thỏa thuận trọng tài bắt buộc phải được thực hiện bằng văn bản, có thể được lập bằng điều khoản trong hợp đồng thương mại hoặc xác lập bằng hình thức thỏa thuận riêng và cần phải tuân theo quy định pháp luật.
Nguyên tắc giải quyết bằng trọng tài thương mại:
Căn cứ Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài như sau:
- Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
- Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật.
- Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
- Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
- Phán quyết trọng tài là chung thẩm.
Những nguyên tắc này là nét đặc trưng nhằm phân biệt thủ tục giải quyết tranh chấp theo trọng tài thương mại và thủ tục tố tụng tại Tòa án và là cơ sở cho các bên tiến hành lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng phương thức nào cho phù hợp.
Khi nào thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Căn cứ Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 (được hướng dẫn bởi Điều 3 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP) quy định, thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong các trường hợp sau:
- “Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài” quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật TTTM là trường hợp thỏa thuận trọng tài được xác lập để giải quyết tranh chấp không thuộc lĩnh vực quy định tại Điều 2 Luật TTTM.
- “Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật” quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật TTTM là người xác lập thỏa thuận trọng tài khi không phải là người đại diện theo pháp luật hoặc không phải là người được ủy quyền hợp pháp hoặc là người được ủy quyền hợp pháp nhưng vượt quá phạm vi được ủy quyền.
Về nguyên tắc thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập thì thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu. Trường hợp thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập nhưng trong quá trình xác lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận hoặc đã biết mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài không vô hiệu.
- “Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự” quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật TTTM là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này thì Tòa án cần thu thập chứng cứ để chứng minh người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự thì phải có giấy tờ tài liệu chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của Tòa án xác định, tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- “Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 Luật TTTM” quy định tại khoản 4 Điều 18 Luật TTTM là trường hợp thỏa thuận trọng tài không được xác lập bằng một trong các hình thức quy định tại Điều 16 Luật TTTM và hướng dẫn tại Điều 7 Nghị quyết này.
- “Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài” quy định tại khoản 5 Điều 18 Luật TTTM là trường hợp một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép theo quy định tại Điều 4, Điều 132 của Bộ luật dân sự.
- “Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật”quy định tại khoản 6 Điều 18 Luật TTTM là thỏa thuận thuộc trường hợp quy định tại Điều 128 của Bộ luật dân sự.
Mối quan hệ giữa thỏa thuận trọng tài và hợp đồng
Theo quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 tại Điều 19, thỏa thuận trọng tài và hợp đồng có quan hệ độc lập với nhau. Tuy thỏa thuận trọng tài có thể được quy định là một điều khoản trong hợp đồng thương mại ký kết giữa các bên nhưng điều khoản trọng tài xác định thủ tục tố tụng được áp dụng trong trường hợp có tranh chấp phát sinh giữa các bên, còn hợp đồng chính quy định quyền và nghĩa vụ của các bên. Việc thay đổi hay gia hạn, hủy bỏ hợp đồng hay hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của thoả thuận trọng tài.